THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP THĂM DÒ VÀ KHAI THÁC DẦU KHÍ NGOÀI KHƠI TẠI VIỆT NAM

Việt Nam đang có tiềm năng và khả năng phát triển bền vững về ngành công nghiệp Dầu khí. Tuy nhiên , việc thăm dò, khai thác dầu khí ngoài khơi vẫn còn gặp nhiều khó khăn và thách thức. Và cần có các giải pháp để mở rộng hoạt động thăm dò, khai thác dầu khí được hiệu quả, mang lại lợi ích kinh tế cho đất nước, đảm bảo an ninh, an toàn trên biển. Bài viết dưới đây Minh Phú Electric muốn đề cập đến thực trạng cũng như giải pháp để phát triển và mở rộng hoạt động thăm dò khai thác dầu khí ngoài khơi tại Việt Nam.

Thực trạng hoạt động thăm dò khai thác dầu khí ngoài khơi tại Việt Nam

Trải qua 60 năm hoạt động và phát triển của ngành Dầu khí thì cho đến nay tổng trữ lượng dầu khí được phát hiện là trên 1,5 tỷ m3 quy dầu, trong đó có khoảng 734 triệu m3 dầu và condensate và 798 tỷ m3 khí. Trữ lượng các mỏ đang tập trung khai thác chủ yếu ở bể Cửu Long, Nam Côn Sơn, Sông Hồng, Malay-Thổ Chu.

Ngoài các khu vực trên thì các bể trầm tích thềm lục địa và các vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam còn nhiều cấu tạo chưa được thăm dò với tiềm năng khoảng1,5- 2,5 tỷ m3 quy dầu, trong đó khu vực nước sâu, xa bờ,  điều kiện thi công phức tạp chiếm khoảng 50%, được phân bổ như sau: Bể Cửu Long (9%), Sông Hồng (20%), Malay-Thổ Chu (3%), Phú Quốc (2%), Nam Côn Sơn (15%), Phú Khánh (16%), Tư Chính – Vũng Mây (32%), Hoàng Sa (5%). Và các khu vực này ít được thăm dò nên mới chỉ có phát hiện dầu khí, tài liệu còn hạn chế nên dự báo tiềm ẩn rủi ro cao.

Hiện nay, sản lượng khai thác dầu khí đang có xu hướng giảm nhanh, do số mỏ mới đưa vào khai thác ít, chủ yếu là mỏ nhỏ. Hơn thế nữa, nhiều yếu tố khách quan và chủ quan về kĩ thuật, kinh tế, chính trị cũng ảnh hưởng không nhỏ đến việc duy trì sản lượng dầu khí. Hoạt động thăm dò khai thác đòi hỏi nguồn vốn lớn, phụ thuộc vào yếu tố cung cầu của thị trường. Và đặc thù của khai thác dầu khí yêu cầu phải làm chủ khoa học kĩ thuật công nghệ cao, trình độ và kinh nghiệm. Bên cạnh đó, những rủi ro địa chính trị và xung đột sắc tộc luôn tiềm ẩn, lợi nhuận cũng nhận rủi ro cao.

Sản lượng khai thác dầu suy giảm từ 21 triệu tấn (năm 2004) và gần 18 triệu tấn (năm 2015) xuống 7 triệu tấn dự báo vào năm 2022, đây là điều  mà Việt Nam rất không mong muốn. Khí có khả năng khai thác để bù vào sản lượng dầu suy giảm, nhưng thị trường và các hộ tiêu thụ chưa sẵn sàng và thậm chí không thể huy động khí đã cam kết theo các hợp đồng.

Số lượng hợp đồng dầu khí được ký kết mới giảm sâu trong giai đoạn 2015-2020 mà chủ yếu là nhà đầu tư trong nước, năm 2021, khả năng không ký được hợp đồng mới, trong khi số lượng hợp đồng dầu khí kết thúc trong giai đoạn này là trên 10 hợp đồng và việc đầu tư thăm dò khai thác giảm sâu do biến động tiêu cực, khó khăn do giá dầu diễn biến phức tạp và xu thế chuyển đổi năng lượng; khung pháp lý không ổn định và thiếu linh hoạt làm nhà đầu tư nghi ngại; cơ chế chính sách với nhà đầu tư trong nước chưa đủ thích ứng; tính chất và mức độ phức tạp trên Biển Đông đã ảnh hưởng trực tiếp và sâu sắc đến vùng hoạt động và môi trường đầu tư trong lĩnh vực thăm dò khai thác dầu khí.

Ngoài ra những khó khăn còn liên quan đến việc thúc đẩy phát triển các dự án khí lớn như Lô B, Cá Voi Xanh. Trong phần trữ lượng đã phát hiện chưa khai thác, trữ lượng từ các dự án khí lớn như Lô B, Cá Voi Xanh chiếm tới 30%, bằng với trữ lượng còn lại của các mỏ đang khai thác. Đây là các dự án khí lớn, việc phát triển các dự án này đem lại hiệu quả và lợi ích tổng thể rất lớn cho kinh tế nhà nước.

Tuy nhiên, việc phát triển chuỗi các dự án này cần có những cơ chế đồng bộ cho thị trường khí và thị trường điện, song, hiện chúng ta vẫn chưa có các cơ chế này. Đây là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến chưa thể triển khai được các dự án. Việc chậm trễ này đã và sẽ ảnh hưởng lớn tới việc bù đắp sản lượng trong thời gian tới, và nếu kéo dài sẽ rất khó có thể triển khai trong tương lai.

Giải pháp phát triển và mở rộng hoạt động thăm dò khia thác dầu khí ngoài khơi tại Việt Nam

  • Nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ kĩ thuật vào thăm do khai thác dầu khí để nâng cao hơn nữa hiệu quả vận hành khai thác cũng như đảm bảo duy trì sản lượng khai thác. Đặc biệt là đầu tư nghiên cứu gia tăng hệ số thu hồi dầu (EOR), công nghệ khai thác khí có hàm lượng CO2cao, nghiên cứu các cơ chế chính sách phát triển các mỏ nhỏ, mỏ cận biên.
  • Tiếp tục chỉ đạo và phối hợp chặt chẽ với các nhà thầu để áp dụng các biện pháp kĩ thuật, kiểm soát tốt các chương trình thăm dò, công tác khoan, phát triển mỏ và quản lý mỏ an toàn, kiểm soát tối ưu chi phí, tăng cường công tác quản trị biến động để linh hoạt điều hành các hoạt động sản xuất.
  • Đối với các dự án trọng điểm nên kiến nghị Thủ tướng Chính phủ và Bộ Công Thương chỉ đạo và thúc đẩy giải quyết các vướng mắc tại các nhà máy điện hạ nguồn tiêu thụ khí Lô B; cũng như tiếp tục tác động thông qua kênh ngoại giao với đối tác sớm đưa Dự án Cá Voi Xanh vào danh mục các dự án ưu tiên đầu tư; đồng thời có phương án tháo gỡ các vướng mắc cho công tác đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực dầu khí.
  • Duy trì và thúc đẩy hoạt động đầu tư, cần sớm hoàn thiện, sửa đổi Luật Dầu khí để thu hút đầu tư thăm dò mở rộng và thăm dò mới, cũng như hoạt động thăm dò khai thác các mỏ nhỏ, mỏ cận biên để làm chậm đà suy giảm khai thác dầu thô. Cần phải có các điều chỉnh cơ chế và khung pháp lý liên quan đến đầu tư và phát triển tổng thể của các dự án đã có phát hiện khí với trữ lượng lớn. Song song, mở rộng thị trường và phát triển đồng bộ theo chuỗi giá trị từ khai thác, vận chuyển, phát điện đến các hộ tiêu thụ năng lượng.

 

Mọi thông tin chi tiết xin vui lòng liên hệ:

Trang web:  https://codiencongnghiep.com.vn

Địa chỉ văn phòng: 399B Trường Chinh, Phường 14, quận Tân Bình, TPHCM

Hotline:  090 693 7788 – 090 950 9696

Email: info@minhphu.org